Quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là cơ sở pháp lý để xác định phạm vi xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, đồng thời cũng thể hiện được mối quan hệ chặt chẽ giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong tố tụng hình sự. Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: (1) Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử; (2) Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố; (3) Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.
Từ quy định trên, nhiều vụ án Viện kiểm sát truy tố hành vi của bị cáo từ một đến hai tội danh nhưng quá trình xét xử Tòa án đã căn cứ vào lời khai của bị cáo, cũng như tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xét xử bị cáo một tội duy nhất hoặc tội khác Viện kiểm sát truy tố, cụ thể:
Vụ án thứ nhất: Ngày 16/8/2021, bị cáo Hồ Văn H đang bốc đường tại bến đò KT, thị trấn B, huyện H thì có người đàn ông đến thuê vận chuyển gói hàng đưa về nhà của bị cáo cất giữ rồi có người đến nhận và trả tiền công vận chuyển 500.000 đồng. Bị cáo H biết bên trong gói hàng là ma túy, nhưng vẫn đồng ý vận chuyển. Bị cáo còn xin ma túy để sử dụng thì người này bỏ vào túi áo của bị cáo 02 gói nhỏ. Sau đó, bị cáo vận chuyển gói ma túy có khối lượng 598,32 gam và 06 viên nén màu hồng (bị cáo xin sử dụng) có khối lượng 0,6558 gam đều ma túy loại Methamphetamin từ bến đò KT về cất dấu trong nhà của bị cáo. Đến khoảng 19 giờ 30 phút ngày 17/8/2021, hành vi của bị cáo bị lực lượng chức năng phát hiện bắt giữ cùng tang vật được cất dấu trong nhà.
Viện kiểm sát truy tố bị cáo Hồ Văn H về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 250 của Bộ luật hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên, tại Bản án số 23/2022/HS-ST ngày 22/9/2022 của TAND tỉnh Q xét xử bị cáo Hồ Văn H 18 (Mười tám) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bản án sơ thẩm sau đó bị VKS kháng nghị nhưng TAND cấp cao xử phúc thẩm đã bác kháng nghị, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Vụ án thứ hai: Ngày 10/6/2022, có người tên Ng gọi điện thoại nhờ bị cáo H chuẩn bị số tiền 20.000.000 đồng đi vào thị trấn K, huyện H, tỉnh Q để mua ma túy tổng hợp “hồng phiến” và vận chuyển về thành phố Đ giao cho Ng. Ng hứa sẽ trả lại bị cáo H số tiền 20.000.000đồng mua ma túy và trả tiền công vận chuyển 15.000.000đồng. Do không có tiền nên H đưa xe máy của H đi cầm cố vay số tiền 20.000.000đồng để vào thị trấn K mua ma túy tổng hợp. Khoảng 20 giờ cùng ngày, H đến ngã ba TL, đi qua cổng chào thôn LP thì gặp người đàn ông, H đưa số tiền 20.000.000 đồng. Sau đó, có người thanh niên đi xe Yamaha Exciter màu đen đến giao cho H 01 gói ma túy hồng phiến. Sau khi kiểm tra gói ma túy xong, H quay trở về Tp ĐH. Khoảng 21 giờ 20 phút cùng ngày, khi xe đến km30+855, Quốc lộ 9, thuộc huyện C, tỉnh Q thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang. Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo H, về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 250 của Bộ luật hình sự. Ngày 24/5/2023, tại Bản án số: 26/2023/HS-ST của TAND tỉnh Q đã xét xử bị cáo Đặng Quang H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Như vậy, thấy rằng quan điểm về định tội danh đối với hành vi phạm tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử còn nhiều nhận thức khác nhau.
Nguyễn Văn Long – Thư ký TAND tỉnh Quảng Trị
Ảnh nguồn: Công an tỉnh Quảng Trị